Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2008

LON I

Cái con vật đen trũi, mặt nhăn, lưng võng, bụng suốt ngày quệt lê xuống đất mà chúng ta vẫn quen gọi là lợn ỉ giờ chỉ còn quen thuộc trong tâm trí thế hệ từ “U40” trở lên.

Lợn ỉ
Thế nhưng ít ai biết rằng, loài lợn này đang được cảnh sát phương Tây nuôi vì nó có khả năng phát hiện thuốc nổ với khứu giác tốt.
Loài lợn nói chung quá quen thuộc, nên đều không được để ý cho lắm. Chỉ tại các viện nghiên cứu Y học, người ta mới thực sự biết trân trọng loài này, vì nó là động vật thí nghiệm cực tốt cho các loại dược phẩm, đặc biệt, sự tương đồng về cấu trúc các cơ quan nội tạng khiến quá trình nghiên cứu ghép tạng tại Việt Nam không thể không qua bước thực nghiệm trên lợn.

Chỉ có điều, bây giờ tìm ra giống lợn đích thực bản địa của Việt Nam rất khó. Các loài này vốn suốt ngày tự đi bới đất, bới cây để ăn, sức đề kháng cực tốt, nhưng nuôi cả năm mới được 40-50kg nên đã nhanh chóng bị các giống lợn lai đánh bật.
Xưa kia, nhà nào có mỡ lợn ỉ rán thì chẳng thể giấu nổi, mùi thơm toả đi mấy ngõ. Câu “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ” thể hiện một nét văn hoá Tết phải ghi công đóng góp lớn của lợn ỉ.
Nhưng năm 1968, loài này còn 2 triệu con, thì đến 1990 chỉ còn khoảng 100 con. Đến nay, những nguồn gen lợn quý đã bị mai một đi rất nhiều.
Có lẽ đã có rất nhiều giống vật nuôi đặc sản hiện nay như lợn ỉ, lợn H’mông, lợn rừng, gà ri… đã bị tuyệt chủng hoặc mất giống thuần chủng nếu không được một nơi chuyên gìn giữ.
Từ năm 1980, thế giới mới có ý niệm phải bảo vệ giống vật nuôi để đảm bảo đa dạng sinh học.
Và từ năm 1990, được giao “trọng trách” làm “đấng cứu thế” các giống vật nuôi, TS. Võ Văn Sự (Trưởng Bộ môn Động vật Quý hiếm và Đa dạng sinh học - Viện chăn nuôi quốc gia) bắt đầu phần đời “trường chinh” khắp nơi để đến nay gom được gần đủ hơn 50 giống gà, lợn, dê, trâu, bò… mà người Việt đã thuần dưỡng trong quá trình lịch sử.
Sở dĩ, tên bộ môn của ông có từ “Động vật quý hiếm” mặc dù đối tượng chỉ là những con vật… trong vườn, ai cũng biết vì nói theo các nhà khoa học thế giới, mọi giống vật nuôi đều là sản phẩm của một nền sản xuất, một nền văn hoá của từng tộc người.
Có nhiều giống chỉ có ở một địa phương, như gà Hồ (Đông Hồ), gà H’mông (vùng Tây Bắc), bình thường, chúng được nuôi nhưng chỉ cần một trào lưu nuôi con giống mới, hay qua một đợt lũ quét là… hết sạch.
Và theo TS. Sự thì “đã có không ít giống được bị tuyệt chủng như thế” nên công tác bảo tồn giống vẫn luôn phải duy trì với sự cảnh giác cao độ. Và không ít vật nuôi thành món đặc sản ngày nay, phải nhờ quá trình… truy tìm, bảo vệ dài lâu mới giữ được.
Cứu lợn ỉ
Chẳng mấy ai ngờ, lợn cũng phải bảo tồn. Nhưng những giống lợn rừng, lợn Mán, lợn Mường Khương, lợn H’mông… đang được nuôi cung cấp cho các cửa hàng đặc sản hiện nay đều xuất phát từ cái nôi giữ giống ở Bộ môn Động vật Quý hiếm và Đa dạng sinh học, Viện chăn nuôi.
Để giữ được một giống quý phải qua bao công đoạn, mà cái sự đi tìm giống vật nuôi bao giờ cũng phức tạp và gian khổ. Quốc lộ số 10 đã khá quen thuộc với ông Sự.
Còn nhớ, cũng vào tầm cuối năm 1999, lúc người đời đôn đáo chở hàng, chở giống lợn siêu nạc ra phố thì TS. Võ Văn Sự lại tay nải lặn lội về các miền quê. Làm gì ư? Ông tìm lợn. Lợn ỉ đen sì, bụng xệ sát đất, da nhăn nheo, chỗ nào cũng bới mà chẳng ngộ độc bao giờ.
Khi “vào bếp”, chúng có thứ mỡ trắng ngà, ăn ngậy, béo mà không ngán. Lúc đó, đàn lợn ỉ của Viện Chăn nuôi đã bị đồng hoá nghiêm trọng.

TS. Võ Văn Sự (giữa) với cô gái người Mỹ tìm đến Viện Chăn nuôi chỉ để xem chú lợn ỉ.
Nguy cơ đã liền kề. Một giống lợn từng có 2 triệu con, nhiều cụ ông cụ bà nông điền biết rằng nó dễ nuôi thật đấy, nhưng năng suất kém nên lợn ỉ ngày càng khó tìm.
TS. Sự đã phải bỏ ra đến 4 tháng trời ròng rã. Xuống Nam Định, tối tìm nhà người dân ngủ nhờ, ngày lại lên đường lân la dò hỏi: “Các bác có biết đâu bán lợn ỉ không?”…
Nam Định không có, ông sang Thái Bình, rồi Ninh Bình. Nông dân đi làm sớm, ông cũng phải dậy từ 3-4 giờ, đi quanh làng để nghe tiếng lợn đòi ăn, chỗ nào có tiếng kêu nặng chình chịch, nhưng ngắn và gấp là ông táp vào hỏi bằng được: nhà ta có lợn ỉ gộc đấy à? Có những buổi chiều, nghe người ta mách “nhà ông Hinh giữa làng còn một con”.
Ông tìm bở hơi tai. Nhà khoá cổng, ngồi ở chân đống rơm chờ. Sẩm tối, vợ chồng nhà nọ về. “”Vâng, bác vào mà xem”. Hăm hở vén mành chuồng lợn, mặc mùi phân nồng nặc, ông sán lại: không phải! Dân đâu phải ai cũng biết đích xác thế nào là giống lợn ỉ, cứ đen đen xâu xấu thì bảo “chắc chắn nhà đấy có”.
Song cuối cùng, chuyến đi xuyên 3 tỉnh, hơn 4 tháng trời biền biệt không về nhà đó, TS. Sự cũng tìm được giống lợn ỉ pha. Ông móc ví đã xẹp do chuyến đi quá dài mua mấy con, rồi bỏ rọ đèo xe máy về. Nông dân không nỡ “bắt bí”: “20.000 đồng/kg.
Ông Sự thầm thì với tôi “Lúc ấy mình có chút xót xa vì rẻ quá. Trong lúc đó, người Mỹ bán một cái sơ-my để mặc cho lợn ỉ gốc Việt Nam làm cảnh đã là 20 đô-la/cái”.
Dù sao, mua được nghĩa là giống lợn ỉ đã có cơ may. “Tuy vậy, đó chỉ là giống chúng ta còn đến ngày nay, còn giống lợn ỉ mỡ đen chính gốc của tổ tiên chúng ta thì đã mất hẳn từ năm 1960 rồi” – TS. Sự buồn buồn bảo với tôi như vậy.
Có 8 giống vật nuôi bản địa của người Việt đã mất đi hẳn như thế. Dòng lợn ỉ mỡ, lợn Sơn Vi, gà Văn Phú… toàn những giống phổ biến ngày xưa, thịt có vị rất đặc trưng nhưng đã không có may mắn được bảo tồn kịp thời, nên đã… biến mất.
“Nhiều dòng gà vịt nổi tiếng của nước ngoài có mặt tại nước ta như gà Ka-bi, Sác-xô.. là sản phẩm “tổng hợp” của các giống gà nội địa như của ta”-TS. Võ Văn Sự bức xúc.
“Chúng ta có thể chế tạo được máy bay, nhưng một con muỗi thì còn lâu mới làm nổi. Để tuyệt chủng đi một giống là để mất đi một nguồn sống. Nếu thế thì thật có lỗi vì một nguồn sống kia. Sau này, có thể nhân ra thành biết bao nhiêu dòng, giống khác...” - TS. Sự giải thích. ông cùng cộng sự đã lấy tâm niệm ấy để thắp lửa lòng đi… bảo tồn giống.
"Bảo tồn nhân dân"
Mỗi khi tìm được giống, Bộ môn Bộ môn Động vật Quý hiếm và Đa dạng sinh học phải mang giống về và tìm mọi cách “bảo tồn nhân dân”, tức đầu tư nhờ dân nuôi giống đó tại chính quê hương của chúng.
Sau đó, khi cái ăn, cái mặc của dân ta được không còn quá bức xúc, nhu cầu thưởng thức các món đặc sản lên cao, thì giống quý sẽ được cứu bằng chính giá trị kinh tế của nó.
“Chỉ cần quảng bá, tìm đầu ra cho nó là sẽ đảm bảo nguồn gene sẽ được phát triển trong dân gian”, TS. Võ Văn Sự thổ lộ “bí quyết bảo tồn” của mình.
Giờ, ông đã có những thành công đầu tiên. Lợn ỉ đã thành món đặc sản được nhiều nhà hàng ở Hà Nội mua để bán cho khách với giá gấp 3 lợn thường. Lợn Vân Pa (của đồng bào Vân Kiều) có thói quen tự dọn ổ, sức đề kháng tốt, thịt thơm đang được làm đề án bảo tồn khi số lượng chỉ còn cỡ chục con.
Giống mới phát hiện: lợn Nàng Hương (Cao Bằng) vừa được phát hiện, lợn Mường Khương có đặc tính hoang dã cao đã giao cho một số cơ sở địa phương nuôi, nay cơ bản đã an toàn…
Ông Sự hy vọng lắm, 13-14 loài lợn còn lại hiện nay sẽ thoát khỏi những nguy cơ mà không ai nghĩ loài này đang gặp phải, đó là… mất giống.
Những giống này nếu được người sành ăn chấp nhận, giá trị kinh tế cao, người dân sẽ nuôi nhiều. Như thế không những giống quý không mất đi mà người nông dân sẽ có thêm cơ may để tăng thu nhập.
“Có một cô người Mỹ vừa bỏ tiền thuê phiên dịch rồi bay từ TP Hồ Chí Minh ra Viện Chăn nuôi chỉ để xem... lợn ỉ”. Kết thúc câu chuyện, ông Sự khoe vậy rồi bảo: “Tôi mới thấy giống lợn ỉ Việt Nam xuất hiện trên một… trang web của Mỹ.
Họ bắt giống lợn đen ngỏm ấy về làm sinh vật cảnh tự khi nào. Giá 2000 USD/con. Một con lợn ỉ lai Móng Cái của ta ở xứ người giá cũng đến 1000 đô-la/con! Dân Việt cũng sẽ không quay lưng lại mãi với giống quý của tổ tiên đâu, đến lúc đó, các giống vật nuôi sẽ được bảo tồn bền vững”.
Nghe giọng nói đầy tâm huyết của TS. Sự, tôi cũng vui lây, nhất là khi thế giới đang cảnh báo mỗi tuần, loài người đang mất đi 2 giống động vật trong sự hờ hững của rất nhiều người…
Cầm Văn Kình (VTC)

Không có nhận xét nào: